Tylenol SR TE

Tình trạng: Còn hàng 0 bình luận
31,000 đ / Chai
Chai 60ml
Danh mục: Dược phẩm
Mô tả ngắn:
  • Công dụng: Giảm đau, hạ sốt.
  • Thành phần chính: Paracetamol
  • Đối tượng sử dụng: Trẻ em
  • Thương hiệu: Olic (Thái Lan) 
  • Nhà sản xuất: OLIC (Thailand) Limited
  • Nơi sản xuất: Thái Lan
  • Dạng bào chế: Hỗn dịch uống
  • Cách đóng gói: Chai 60ml
  • Thuốc cần kê toa: Không
  • Hạn dùng: 2 năm kể từ ngày sản xuất.
  • Số đăng kí: VN-21880-19
Nhà thuốc Minh Thủy cam kết

Đổi trả trong 30 ngày

kể từ ngày mua hàng

Miễn phí 100%

đổi thuốc

Miễn phí vận chuyển

theo chính sách giao hàng

Thành phần

Thành phần dược chất: Mỗi 2,5mL (1/2 thìa cafe) có chứa 80mg acetaminophen (paracetamol).

Thành phần tá dược: Siro ngô hàm lượng fructose cao, propylene glycol, glycerin, dung dịch sorbitol, nước tinh khiết, gôm xanthan, cellulose vi tinh thể (Avicel RC 591), acid citric khan, natri benzoate, butylparaben, đỏ FD&C, hương anh đào nhân tạo, natri hydroxide.

Công dụng (Chỉ định)

Là thuốc giảm đau-hạ sốt để giảm đau tạm thời các cơn đau từ nhẹ đến trung bình trong nhiều tình trạng liên quan đến đau cơ xương, cũng như các tình trạng đau khác như đau đầu (bao gồm đau nửa đầu từ nhẹ đến trung bình và đau đầu căng cơ), đau tai, đau thắt lưng, đau do viêm khớp, đau bụng kinh, đau cơ và đau dây thần kinh. Thuốc cũng được chỉ định để giảm triệu chứng sốt do cảm lạnh thông thường, cúm và các nhiễm trùng do virus hoặc vi khuẩn khác.

Cách dùng - Liều dùng

Trẻ em dưới 12 tuổi: 10 đến 15 mg/kg mỗi 4 đến 6 giờ, nếu cần, không được vượt quá 50-75 mg/kg/24 giờ. Đối với trẻ em nặng hơn 53 kg, không vượt quá liều tối đa cho phép 4000mg acetaminophen. Ngoài ra, liều đơn sau đây (xem Bảng 3) có thể được dùng mỗi 4 đến 6 giờ không được vượt quá 5 liều trong 24 giờ. Thuốc có thể được dùng cùng hoặc không cùng thức ăn (ví dụ: sữa, sữa công thức, nước trái cây, v..).

Bảng 3:

Liều ở Trẻ em

Cân nặng (kg)

Nhóm tuổi

Liều đơn (mg)

2,5-5,4

0-3 thánga

40

5,5-7,9

4-11 tháng

80

8-10,9

12-23 tháng

120

11-15,9

2-3 tuồi

160

16-21,9

4-5 tuổi

240

22-26,9

6-8 tuổi

320

27-31,9

9-10 tuổi

400

32-43,9

11-12 tuổi

480

 

a Lưu ý: Liều dùng hướng dẫn dành cho bác sĩ khi khuyến cáo cho bệnh nhân. Lưu ý: Không có sẵn dữ liệu cho chỉnh liều phù hợp, nếu cần trong giai đoạn sơ sinh ban đầu. Sử dụng thuốc hạ sốt trong giai đoạn này là hết sức hạn chế.

Không sử dụng trong trường hợp sau (Chống chỉ định)

Quá mẫn với acetaminophen hoặc bất kỳ thành phần nào trong công thức (xem Thành phần). Phản ứng dị ứng (chủ yếu là phát ban da) hoặc báo cáo quá mẫn thứ phát với acetaminophen là rất hiếm và thường được kiểm soát bằng cách ngừng thuốc và điều trị triệu chứng khi cần thiết. Không sử dụng cùng với bất kỳ sản phẩm nào khác có chứa acetaminophen.

Lưu ý khi sử dụng (Cảnh báo và thận trọng)

Cảnh báo chung: Người lớn và trẻ em từ 12 tuổi trở lên không được dùng acetaminophen quá 4 g/ngày hoặc sử dụng nhiều sản phẩm có chứa acetaminophen cùng một lúc. Trẻ em dưới 12 tuổi không nên uống nhiều hơn liều tối đa hàng ngày được ghi ở mục Liều dùng và cách dùng. Những giới hạn này bao gồm cả các sản phẩm kết hợp có chứa acetaminophen.Cảnh báo quá liều: Uống nhiều hơn liều khuyến cáo (quá liều) có thể dẫn đến tổn thương gan. Trong trường hợp quá liều cần trợ giúp y tế ngay lập tức. Chăm sóc y tế nhanh chóng là rất quan trọng cho người lớn cũng như cho trẻ em ngay cả khi bạn không nhận thấy bất kỳ dấu hiệu hoặc triệu chứng nào. Các sản phẩm có chứa acetaminophen nên được để xa tầm tay của trẻ em. Người dùng thuốc là những người nghiện rượu mạn tính hoặc bị bệnh gan cần hỏi bác sĩ xem họ có nên uống acetaminophen hoặc thuốc giảm đau khác hoặc thuốc hạ sốt hay không. Các bác sĩ nên hiểu và giám sát việc sử dụng acetaminophen ở những bệnh nhân nghiện rượu mạn tính, có bệnh thận nghiêm trọng hoặc bệnh gan nghiêm trọng. Các bác sĩ nên cảnh báo bệnh nhân, những người thường xuyên uống nhiều rượu, không dùng vượt quá liều khuyến cáo của acetaminophen. Những người nghiện rượu nặng mạn tính có thề tăng nguy cơ nhiễm độc gan do dùng acetaminophen quá liều.

Bệnh nhân nên được tư vấn để ngừng sử dụng và tham khảo ý kiến bác sĩ nếu có đỏ hoặc sưng ở vùng bị đau, nếu các triệu chứng không cải thiện hoặc nếu tiến triển xấu đi; nếu đau hoặc sốt vẫn còn hoặc tệ hơn; hoặc nếu có các triệu chứng mới như sốt cao, phát ban, ngứa hoặc đau đầu dai dẳng, vì đây có thể là dấu hiệu của tình trạng cần được chăm sóc y tế. Không nên dùng acetaminophen để giảm đau nhiều hơn 5 ngày, để điều trị sốt nhiều hơn 3 ngày hoặc nếu các triệu chứng mới xuất hiện mà không hỏi ý kiến bác sĩ.

Trên gan: Ở những bệnh nhân bị bệnh lý gan mạn tính, chuyển hóa acetaminophen chậm hơn, tăng hoạt tính của hệ enzyme cytochrome P450, hoặc thiếu hụt dự trữ glutathione được xác định là yếu tố nguy cơ về lý thuyết đối với độc tính trên gan do acetaminophen. Tuy nhiên, acetaminophen đã được nghiên cứu ở cả người lớn và trẻ em với nhiều bệnh lý gan bao gồm nhiều loại xơ gan, viêm gan (bao gồm viêm gan C), biến đổi nốt (nodular transformation), xơ hóa gan bẩm sinh và thiếu hụt α1-antitrypsin. Không có tình trạng bệnh lý nào trong số này có bằng chứng về tăng nguy cơ nhiễm độc gan ở liều acetaminophen hiện đang được khuyến cáo nhưng các nghiên cứu chưa đủ mạnh để xác định mức độ nguy cơ. Bệnh nhân bị bệnh gan nên tham khảo ý kiến bác sĩ trước khi sử dụng. Forrest1 so sánh chuyển hóa acetaminophen sau một liều đơn 1500mg ở các đối tượng bình thường, bệnh nhân bị bệnh gan nhẹ, và bệnh nhân bị bệnh gan nặng. Không có sự khác biệt đáng kể về tổng bài tiết qua nước tiểu 24 giờ của acetaminophen và các sản phẩm liên hợp glucuronide, sulfate, cysteine, và acid mercapturic, bằng chứng cho thấy chuyển hóa của acetaminophen tương tự như ở các đối tượng bình thường. Tuy nhiên, thời gian bán thải bị kéo dài đáng kể ở những bệnh nhân bị bệnh gan nặng. Acetaminophen cũng đã được nghiên cứu ở những bệnh nhi bị bệnh gan. Sau một liều đơn (10 mg/kg) acetaminophen, các đặc tính dược động học ở bệnh nhi có bệnh gan nhẹ, trung bình hoặc nặng không có khác biệt đáng kể. Mặc dù thời gian bán thải của acetaminophen trong huyết tương kéo dài ở những bệnh nhân bị bệnh gan nặng, không có sự khác biệt đáng kể về bài tiết qua nước tiểu trong 36 giờ (trẻ em) của acetaminophen hoặc các chất liên hợp của nó.

Ở liều khuyến cáo hiện nay acetaminophen là một lựa chọn giảm đau thích hợp để sử dụng ở những bệnh nhân bị bệnh gan ổn định mạn tính khi được dùng dưới sự giám sát của bác sĩ.

Acetaminophen có thể gây độc cho gan trong các tình huống quá liều cố ý (ví dụ như tự tử), quá liều không chủ ý (ví dụ dùng quá liều khi tác dụng giảm đau không đủ), đồng thời sử dụng nhiều chế phẩm có chứa acetaminophen, quá liều vô tình hoặc trong những trường hợp rất hiếm gặp, là sau khi dùng ở mức liều khuyến cáo, mặc dù mối quan hệ nhân quả chưa được xác định. Phản ứng độc trên gan có thể nghiêm trọng và đe dọa tính mạng. Các triệu chứng ban đầu sau khi dùng quá liều gây độc cho gan có thể bao gồm buồn nôn, nôn, toát mồ hôi, lờ đờ và mệt mỏi toàn thân. Nếu không được điều trị thích hợp, các triệu chứng này có thể tiến triển đến đau vùng trên rốn, lú lẫn, sững sờ, và hậu quả của hoại tử gan, chẳng hạn như vàng da, rối loạn đông máu, hạ đường huyết và bệnh lý não. Suy thận và bệnh cơ tim cũng có thể xảy ra. Trong trường hợp đã biết hoặc nghi ngờ quá liều, nên điều trị bằng N-acetyl cysteine ngay lập tức (xem phần Quá liều bên dưới), ngay cả khi không có triệu chứng rõ ràng. Không điều trị kịp thời độc tính trên gan của acetaminophen bằng N-acetyl cysteine có thể dẫn đến suy gan, dẫn đến ghép gan và/hoặc tử vong.

Sử dụng rượu mạn tính: Sử dụng rượu quá mức có thể làm tăng nguy cơ nhiễm độc gan do quá liều acetaminophen (cấp tính hoặc mạn tính).

Dữ liệu tiến cứu từ Kuffner2,3 chứng minh rằng người nghiện rượu mạn tính có thể dùng liều khuyến cáo của acetaminophen mà không làm tăng nguy cơ tổn thương gan. Trong những nghiên cứu tiến cứu, có đối chứng giả dược, các nhà nghiên cứu đã đánh giá một nhóm bệnh nhân nghiện rượu vẫn đang uống rượu và có tỷ lệ suy dinh dưỡng cao. Những người tham gia nghiên cứu đột ngột ngừng uống lượng rượu hàng ngày và uống acetaminophen vào ngày hôm sau. Điều này về mặt lý thuyết sẽ làm cho họ dễ bị tổn thương gây ra bởi acetaminophen vì CYP2E1 của họ sẽ bị cảm ứng tối đa do rượu và sẽ không có alcol cạnh tranh với acetaminophen để chuyển hóa bằng CYP2E1. Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về giá trị trung bình đối với AST, ALT hoặc INR ở những người nghiện rượu uống bốn gram acetaminophen mỗi ngày so với giả dược. Ngoài ra, các nhà nghiên cứu đã thực hiện phân tích các bệnh nhân suy dinh dưỡng cho thấy không có sự gia tăng nồng độ AST hoặc ALT ở những bệnh nhân này. Các hạn chế của nghiên cứu bao gồm thời gian chỉ giới hạn 2 ngày và loại trừ bệnh nhân từ trước đó có tăng AST hoặc ALT lớn hơn 120 U/L. Kết quả nghiên cứu không loại trừ khả năng xảy ra phản ứng đặc ứng trên gan.

Trên thận: Dựa trên dữ liệu lâm sàng hiện có, có thể sử dụng acetaminophen ở những bệnh nhân bị bệnh thận mạn tính mà không cần điều chỉnh liều. Martin4 đã phát hiện ra rằng những bệnh nhân bị suy thận mạn có nồng độ trong huyết tương của acetaminophen và các chất chuyển hóa liên hợp glucuronide và sulfate không hoạt tính cao hơn ở các đối tượng khỏe mạnh trong thời gian dùng thuốc đa liều lên đến mười ngày.

Một số nghiên cứu đơn liều cho thấy sự tích lũy các chất chuyển hóa của acetaminophen ở những bệnh nhân suy thận mạn mức độ trung bình và ở những bệnh nhân mà thẩm phân thận dường như là con đường thải trừ chính.

Không khuyến khích sử dụng acetaminophen thường xuyên. Nếu có chỉ định y khoa, việc sử dụng acetaminophen lâu dài nên được bác sĩ giám sát.

Một khuyến cáo của Tổ chức Thận Quốc Gia lưu ý các bác sĩ ưu tiên dùng acetaminophen cho bệnh nhân suy thận vì các biến chứng chảy máu liên quan đến ASA ở những người này. Acetaminophen được khuyến cáo là thuốc giảm đau không gây nghiện được lựa chọn để sử dụng theo từng đợt ở những bệnh nhân bị bệnh lý nền ở thận.

Trên da: Các bác sĩ nên cảnh báo bệnh nhân về các dấu hiệu của phản ứng có hại trên da nghiêm trọng như hội chứng Steven-Johnson (SJS), hội chứng hoại tử biểu bì nhiễm độc (TEN) hoặc hội chứng Lyell, hội chứng ngoại ban mụn mủ toàn thân cấp tính (AGEP). Các phản ứng như vậy đã được báo cáo rất hiếm gặp ở những bệnh nhân dùng acetaminophen. Cần thông báo cho bệnh nhân về các dấu hiệu của các phản ứng da nghiêm trọng, và cần ngừng sử dụng thuốc ở lần xuất hiện đầu tiên của phát ban da hoặc bất kỳ dấu hiệu khác của quả mẫn.

Quần thể bệnh nhân đặc biệt: Mặc dù có các thận trọng thích hợp, acetaminophen là một lựa chọn giảm đau phù hợp cho phần lớn các phân nhóm có nguy cơ gia tăng các biến cố có hại do sử dụng thuốc giảm đau. Nhóm này bao gồm người bị bệnh hen, người cao tuổi, bệnh nhân dùng nhiều loại thuốc kê đơn, bệnh nhân đang dùng thuốc chống đông, bệnh nhân đang cho con bú, cũng như các bệnh nhân có thể bị nghiện rượu mạn tính, bệnh thận hoặc bệnh gan nặng.

Kết quả của các nghiên cứu lâm sàng được thiết kế tốt chỉ ra rằng giảm liều acetaminophen, để tránh tăng nguy cơ độc tính tiềm tàng, là không cần thiết ờ người cao tuổi và người lớn béo phì. Ngoài ra, các bằng chứng có trọng lượng hiện có không chỉ ra sự cần thiết phải điều chỉnh liều ở bệnh nhân bị bệnh thận mạn tính hoặc bệnh gan mạn tính ổn định. Bệnh nhân cao tuổi: Liều khuyến cáo của acetaminophen ở liều đang được khuyến cáo có thể được sử dụng an toàn cho bệnh nhân cao tuổi. Kết quả của các nghiên cứu lâm sàng được thiết kế tốt cho thấy rằng giảm liều acetaminophen, để tránh nguy cơ tăng nguy cơ độc tính, là không cần thiết. Trong một nghiên cứu chuyển hóa toàn diện được thực hiện bởi Miners5, sự hình thành và thanh thải các chất liên hợp glucuronide và glutathione là giống nhau ở người lớn trẻ tuổi và người cao tuổi, mặc dù thanh thải chất liên hợp sulphate và acetaminophen dạng không đổi đã giảm. Phát hiện này cung cấp dữ liệu khoa học tiến cứu rằng lượng acetaminophen được chuyển hóa qua con đường oxy hóa, từ đó chất trung gian phản ứng cao, NAPQI, được tạo ra, không tăng theo tuổi. Gần đây, Bannwarth6 đã đánh giá dược động học đa liều của acetaminophen ở bệnh nhân cao tuổi. Sau bảy ngày dùng liều lặp lại, acetaminophen không tích lũy trong huyết tương, và thời gian bán thải giống như đã báo cáo ở người trẻ tuổi.

Bệnh nhân cao tuổi cần điều trị lâu hơn 5 ngày nên tham khảo ý kiến bác sĩ để theo dõi tình trạng; tuy nhiên, không cần giảm liều khuyến cáo. Hướng dẫn thực hành lâm sàng của Hội Lão khoa Mỹ về quản lý đau mạn tính ở những người lớn tuổi khuyên dùng acetaminophen như thuốc được lựa chọn để giảm đau cơ xương mức độ từ nhẹ đến trung bình, với liều tối đa không vượt quá 4000mg mỗi ngày. Sử dụng acetaminophen là an toàn trên quần thể người cao tuổi như được cấp phép hiện nay.

Người thiếu hụt Glucose-6-Phosphate Dehydrogenase (G6PD): Ở các liều điều trị, acetaminophen không rút ngắn tuổi thọ của các tế bào hồng cầu và không tạo ra bất kỳ sự phá hủy có thể nhận thấy trên lâm sàng của các tế bào hồng cầu đang tuần hoàn.

Người lớn béo phì: Kết quả của các nghiên cứu lâm sàng được thiết kế tốt chỉ ra rằng giảm liều acetaminophen, để tránh tăng nguy cơ độc tính tiềm tàng, là không cần thiết. O'Shea7 đã nghiên cứu dược động học của chlorzoxazone (được coi là một chất thăm dò cho hoạt tính CYP2E1) để đánh giá ảnh hưởng của béo phì trên hoạt tính của CYP2E1. Các tác giả kết luận rằng CYP2E1 bị cảm ứng ở người lớn béo phì và điều này có thể ảnh hưởng đến con đường chuyển hóa của một số loại thuốc được chuyển hóa bởi CYP2E1, bao gồm acetaminophen. Tuy nhiên, dữ liệu dược động học của acetaminophen đã được nghiên cứu ở người lớn béo phì. Trong nghiên cứu tiến cứu này, 650mg acetaminophen được tiêm tĩnh mạch cho nam giới béo phì (297 Ib), phụ nữ béo phì (193 Ib), nam giới đối chứng (155 Ib) và phụ nữ đối chứng (121 Ib). Thể tích phân bố của acetaminophen trên tổng trọng lượng cơ thể hơi thấp hơn ở người béo phì, nhưng quan trọng hơn, thời gian bán thải và thanh thải qua giai đoạn chuyển hóa trên tổng trọng lượng cơ thể không khác nhau giữa các nhóm.

1 Forrest JA, Adrianenssens p, Finlayson ND, Prescott LF. Paracetamol metabolism in chronic liver disease. Eur J Clin Pharmacol. 1979; 15: 427-431.

2 Kuffner EK, Bogdan GM, Dart RC. Evaluation of hepatotoxicity in alcoholics from therapeutic dosing of acetaminophen. J Toxicol 1997; 35(5): 561.

3 Kuffner EK, Dart RC, Bogdan GM, et al. Effect of maximal daily doses of acetaminophen on the liver of alcoholic patients: A randomized, double-blind, placebo-controlled trial. Arch Intern Med 2001 Oct 8; 161(18): 2247-2252.

4 Martin u, Temple RM, Winney _RJv Prescott LF. The disposition of paracetamol and the accumulation of its glucuronide and sulphate conjugates during multiple dosing in patients with chronic renal failure. Eur J Clin Pharmacol. 1991; 41: 43-4.

5 Miners JO, et al. Comparison of paracetamol metabolism in young adult and elderly males. Eur J Clin Pharmacol 1988: 35: 157-160.

6 Bannwarth B, Pehourcq F, Lagrange F, et al. Single and multiple dose pharmacokinetics of acetaminophen (paracetamol) in polymedicated very old patients with rheumatic pain. J Rheumatol 2001; 28: 182-184.

7 O’Shea D, Davis SN, Kim RB, et al. Effect of fasting and obesity in humans on the 6-hydroxylation of chlorzoxazone: a putative probe of CYP2E1 activity. Clin Pharmacol Ther 1994 Oct; 56(4): 359-67.

Tác dụng không mong muốn (Tác dụng phụ)

Tác dụng trên hệ thần kinh trung ương: Acetaminophen ở liều khuyến cáo không có tác dụng rõ ràng trên chức năng hệ thần kinh trung ương. Trong tình trạng quá liều, tác dụng trên hệ thần kinh trung ương là ít gặp.Tác dụng trên hệ tiêu hóa: Acetaminophen ở liều khuyến cáo không gây kích ứng dạ dày, trợt dạ dày, mất máu từ đường tiêu hóa dạng ẩn hoặc có biểu hiện rõ rệt hoặc loét đường tiêu hóa.

Blot và McLaughlin8 đã tiến hành một phân tích độc lập các dữ liệu bệnh chứng từ một nghiên cứu được tiến hành bởi Hiệp hội Tiêu hóa Mỹ. Nguy cơ chảy máu đường tiêu hóa tăng gấp hai đến ba lần trong số những người gần đây dùng ASA, ibuprofen và các NSAID khác ở liều thông thường (OTC), và nguy cơ cũng liên quan đến liều. Ngược lại, việc sử dụng acetaminophen không làm tăng nguy cơ xuất huyết tiêu hóa.

Tác dụng trên huyết học: Acetaminophen không có bất kỳ tác dụng nhanh hoặc chậm nào trên cầm máu ở mạch máu nhỏ, được đo bằng thời gian chảy máu. Ở những người tình nguyện bình thường dùng một liều đơn acetaminophen (975 hoặc 1950mg) hoặc đa liều acetaminophen (1950mg mỗi ngày trong 6 tuần), không thấy có thay đổi về thời gian chảy máu hoặc ngưng tập tiểu cầu. Trong một nghiên cứu khác, một liều acetaminophen 1000mg duy nhất được dùng cho những người tình
nguyện bình thường và không gây ảnh hưởng đến thời gian chảy máu hoặc ngưng tập tiểu cầu. Bệnh nhân bị bệnh ưa chảy máu dùng đa liều acetaminophen cho thấy không có thay đổi đáng kể trong thời gian chảy máu.
Các phản ứng trên huyết học bao gồm giảm tiểu cầu, giảm bạch cầu, giảm toàn thể huyết cầu, giảm bạch cầu trung tính, và mất bạch cầu hạt đã được báo cáo, mặc dù các phản ứng này là hiếm gặp và quan hệ nhân quả chưa được thiết lập.

Tác dụng trên gan: Như một minh họa về ngưỡng an toàn của acetaminophen ở liều cao hơn liều điều trị, so sánh nồng độ acetaminophen trong huyết thanh theo thời gian của một liều chuẩn 15 mg/kg và liều gấp 5 lần liều chuẩn (75 mg/kg) được thể hiện trong Hình 1. Nồng độ trong huyết thanh được vẽ so sánh đường nguy cơ đối với độc tính gan và đường điều trị của toán đồ Rumack-Matthew được sử dụng để quản lý quá liều cấp tính. Nồng độ trung bình trong huyết tương ở liều cao hơn liều điều trị này cũng thấp hơn đường nguy cơ và đường điều trị của toán đồ ở mọi thời điểm. Tuy nhiên, để giảm thiểu nguy cơ tác dụng phụ, không nên vượt quá liều tối đa khuyến cáo.

Hình 1: Dữ liệu trung bình cho một Liều Chuẩn (1g, 15 mg/kg) và Liều Cao hơn (5,6 g, 75 mg/kg) so với các Đường nguy cơ và Điều trị của Toán đồ acetaminophen.

Thuốc nước hỗn dịch tylenol 60ml

Quá liều acetaminophen có thể gây độc tính trên gan. Ở người lớn và thanh thiếu niên (≥ 12 tuổi), độc tính trên gan có thể xảy ra sau khi uống nhiều hơn 7,5 đến 10g trong khoảng thời gian ít hơn hoặc bằng 8 giờ. Tử vong là ít gặp (dưới 3% đến 4% các trường hợp không được điều trị) và hiếm khi được báo cáo khi quá liều dưới 15 gram, ở trẻ em (< 12 tuổi), quá liều cấp tính dưới 150 mg/kg không liên quan đến độc tính trên gan. Các triệu chứng sớm sau khi dùng quá liều có khả năng gây độc gan có thể bao gồm: Chán ăn, buồn nôn, nôn, toát mồ hôi, tái xanh và mệt mỏi toàn thân. Các bằng chứng lâm sàng và xét nghiệm về độc tính gan có thể không biểu hiện rõ ràng cho đến 48 đến 72 giờ sau khi uống. Độc tính nghiêm trọng hoặc tử vong là cực kỳ ít gặp sau khi dùng quá liều paracetamol cấp tính ở trẻ nhỏ, có thể do sự khác biệt trong cách chuyển hóa paracetamol ở trẻ.
Ở cả người lớn và trẻ em, độc tính liên quan đến acetaminophen thường do uống số lượng thuốc lớn hơn đáng kể so với liều khuyến cáo. Nhiễm độc gan, biểu hiện từ tăng transaminase nhanh thoáng qua đến suy gan tối cấp, gây tử vong, là kết quả thường gặp nhất của quá liều có ý nghĩa lâm sàng.
Trong một nghiên cứu lâm sàng mù đôi, có đối chứng giả dược, người lớn khỏe mạnh được cho dùng acetaminophen 4, 6 và 8 g/ngày trong 3 ngày. Nồng độ trong huyết tương không tích lũy khi dùng đa liều. Trên lâm sàng tất cả các liều đều được dung nạp tốt ở các đối tượng và các giá trị aminotransferase nằm trong giới hạn bình thường trong suốt nghiên cứu. Những dữ liệu này cung cấp thông tin liên quan đến ngưỡng an toàn nhưng không nhằm mục đích hỗ trợ chế độ liều vượt quá liều khuyến cáo tối đa 4 g/ngày.

Một báo cáo đã cho thấy rằng độc tính trên gan sau một liều lớn hơn liều khuyến cáo của acetaminophen có thể bị gia tăng khi uống rượu kéo dài và/hoặc mạn tính.

Sử dụng rượu cấp tính: Uống rượu cấp tính đề cập đến việc sử dụng rượu không thường xuyên hoặc không liên tục. Khi uống cùng, rượu cạnh tranh với acetaminophen trên CYP2E1. CYP2E1 chấp nhận rượu dễ dàng hơn acetaminophen; do đó, ít NAPQI được sản xuất. Khi có rượu, acetaminophen có thể được chuyển hướng đến các con đường glucuronid hóa và sulfat hóa. Kết quả chung là một tỷ lệ acetaminophen nhỏ hơn dự kiến có thể sẽ được chuyển hóa thành chất trung gian độc hại, NAPQI, hơn là trong trường hợp không có rượu. Sự tạo thành NAPQI tăng lên so với trước khi dùng thuốc trong giai đoạn lên đến 18-24 giờ sau khi thanh thải ethanol từ cơ thể. Ở những người trưởng thành khỏe mạnh, với liều acetaminophen khuyến
cáo thông thường, sự gia tăng tạo thành NAPQI tạm thời là nhiều hơn lượng được chuyển hóa bởi glutathione dự trữ bình thường trong gan.

Quá mẫn: Các phản ứng nhạy cảm là hiếm gặp và có thể biểu hiện dưới dạng phát ban, mày đay, khó thở, hạ huyết áp, phù thanh quản, phù mạch, co thắt phế quản hoặc sốc phản vệ. Phản ứng chéo ở những người nhạy cảm với ASA hiếm khi được báo cáo. Nếu nghi ngờ bị mẫn cảm, phải ngừng sử dụng thuốc.

Tác dụng trên thận: Độc tính cấp trên thận đã được báo cáo sau khi dùng quá liều với lượng lớn hoặc do hậu quả của suy gan hoặc, thi thoảng, không có suy gan.

Dữ liệu lâm sàng đã thiết lập cho thấy rằng acetaminophen ở liều khuyến cáo không phải là chất gây độc cho thận.

Một số nghiên cứu cho thấy mối liên hệ giữa việc sử dụng acetaminophen lâu dài và các tác dụng trên thận. Kết quả, tuy nhiên, còn mâu thuẫn, hạn chế do sai lệch nhớ lại và bị nhiễu do không có khả năng xác định xem việc sử dụng thuốc giảm đau trước hay sau khi khởi phát bệnh thận.

Các nghiên cứu bệnh chứng đã gợi ý mối liên hệ yếu giữa việc sử dụng acetaminophen thường xuyên và tần suất suy thận mạn tính và bệnh thận giai đoạn cuối. Khuyến cáo của Tổ chức Thận Quốc Gia kết luận rằng acetaminophen được bác sỹ khuyến cáo ưu tiên cho bệnh nhân suy thận và không có bằng chứng cho thấy việc sử dụng không thường xuyên acetaminophen gây tổn thương thận. Trong báo cáo này, acetaminophen được khuyến cáo là thuốc giảm đau không gây nghiện được lựa chọn để
sử dụng từng đợt ở những bệnh nhân bị bệnh thận.

Quần thể bệnh nhân đặc biệt:

Trẻ em: Lesko và Mitchell9 thu nhận hơn 84.000 trẻ em bị sốt trong một thử nghiệm ngẫu nhiên, mù đôi, đối chứng acetaminophen để đánh giá nguy cơ của các biến cố bất lợi nghiêm trọng nhưng hiếm gặp sau khi sử dụng ibuprofen trên trẻ em. Trong số các trẻ được đưa vào phân tích, 28.130 trẻ đã được dùng acetaminophen và không có phản ứng phản vệ, hoặc các tác dụng nghiêm trọng trên gan, tiêu hóa hoặc thận.

Mang thai và cho con bú: Cũng như với bất kỳ loại thuốc nào, những bệnh nhân đang mang thai hoặc cho con bú nên tham khảo ý kiến bác sĩ trước khi dùng sản phẩm này.

Mang thai: Các vấn đề rủi ro trong thai kỳ là do nhiều yếu tố. Thông tin được cung cấp không thể thay thế cho tư vấn trực tiếp cho bệnh nhân. Acetaminophen được cho là không gây quái thai ở người. Tuy nhiên, các nghiên cứu hiện có đã không đánh giá hiệu quả của những liều rất cao. Dự án Motherrisk Collaborative Perinatal theo dõi 50.282 cặp mẹ-con, trong đó 226 bà mẹ đã dùng acetaminophen trong 3 tháng đầu và 781 bà mẹ đã sử dụng acetaminophen bất kỳ lúc nào trong khi mang thai. Không thấy có bằng chứng gợi ý về mối liên quan giữa việc sử dụng acetaminophen và dị tật lớn hoặc nhỏ. Trong một nghiên cứu giám sát của người nhận chương trình Medicaid ở Michigan thực hiện từ năm 1985 đến năm 1992 bao gồm 229.101 thai kỳ đã hoàn thành, 9.146 trẻ sơ sinh đã có phơi nhiễm với acetaminophen trong quý đầu tiên của thai kỳ. Dữ liệu này không cho thấy có mối liên quan giữa việc sử dụng acetaminophen và sự xuất hiện của dị tật bẩm sinh. Một nghiên cứu đoàn hệ khác, sử dụng giám sát kê đơn, không tìm thấy nguy cơ quá mức của dị tật, và không có bằng chứng cho thấy acetaminophen ảnh hưởng đến sự phát triển của thai nhi. Cuối cùng, như một phần của một nghiên cứu lớn hơn, 697 phụ nữ sử dụng acetaminophen có hoặc không có codein trong ba tháng đầu tiên của thai kỳ. Không tìm thấy nguy cơ gây quái thai.

Một nghiên cứu tiến cứu điều tra kết quả thai kỳ ở 300 phụ nữ đã tự dùng quá liều acetaminophen, đơn trị liệu, hoặc một thành phần của chế phẩm phối hợp. Sử dụng quá liều xảy ra ở tất cả các quý của thai kỳ. Phần lớn các thai kỳ có kết quả bình thường. Tỷ lệ dị tật nằm trong phạm vi dự kiến. Không có mối quan hệ rõ ràng giữa thời gian sử dụng và thời gian sinh. Kết luận chung là quá liều acetaminophen không phải là một chỉ định của chấm dứt thai kỳ.

Trong một nghiên cứu theo dõi sự phát triển dài hạn, acetaminophen không ảnh hưởng xấu đến chỉ số IQ hoặc hành vi ở thời điểm bốn tuổi. Chiều cao, cân nặng và chu vi vòng đầu cũng không bị ảnh hưởng bởi việc phơi nhiễm với acetaminophen trong tử cung.

Khác với ASA, đã được chứng minh là ảnh hưởng rõ ràng đến chức năng tiểu cầu, dường như không có nguy cơ xuất huyết liên quan đến việc sử dụng acetaminophen lúc sinh.

Hiện tại không có bằng chứng cho thấy acetaminophen gây quái thai khi được sử dụng như khuyến cáo. Tuy nhiên, dữ liệu cho liều cao hàng ngày liên tục là chưa đầy đủ, và chưa thiết lập được tính an toàn trong khi mang thai.
Cho con bú: Sau một liều điều trị điển hình, acetaminophen được bài tiết trong sữa mẹ ở nồng độ rất thấp. Dựa trên một số báo cáo được công bố, mức độ phơi nhiễm ở trẻ sơ sinh nhiều nhất là 4,5% liều điều trị ờ trẻ em tính theo cân nặng. Ngoài ra, acetaminophen được coi là phù hợp khi cho con bú theo Viện Hàn lâm Nhi khoa Mỹ.

Thông báo ngay cho bác sỹ hoặc dược sỹ những phản ứng có hại gặp phải khi sử dụng thuốc.

8 Blot WJ, McLaughlin JK. Over the counter non-steroidal anti-inflammatory drugs and risk of gastrointestinal bleeding. J Epidemiol Biostate. 2000; 5(2): 137-142.

9 Lesko SM, Mitchell AA. An assessment of the safety of pediatric ibuprofen: a practitioner-based randomized clinical trial. JAMA. 1995; 273: 929-933.

hỏi đáp cùng minh thủy
Giử bình luận
Giỏ hàng (0)